Tên gọi
Theo ngôn ngữ Ba Na thì Kon là làng, Tum là hồ và Kon Tum có nghĩa là Làng Hồ, bởi xưa kia khu vực này đã từng có một hồ lớn.
Địa lý
Kon Tum nằm ở phía bắc vùng Tây Nguyên, có tọa độ trong giới hạn 13°55’-15°27’ vĩ độ bắc và 107°20’ -108°32’ kinh độ đông, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Gia Lai, phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía tây có biên giới dài 150 km giáp Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và 127 km với Vương quốc Campuchia.
Kon Tum có diện tích tự nhiên 9.614,5 km² (tức 961.450 ha), trong đó:
- Đất ở: 3.332 ha
- Đất nông nghiệp: 92.352 ha
- Đất lâm nghiệp: 606.669 ha
- Đất chuyên dùng: 12.253 ha
- Đất chưa sử dụng: 246.844 ha.
- Do phần lớn diện tích tự nhiên nằm ở phía đông dãy Trường Sơn nên địa hình Kon Tum nghiêng dần từ đông sang tây và thấp dần từ bắc xuống nam.
Phía bắc tỉnh là khối núi Ngọc Linh có độ cao trong khoảng 800-1.200 m, trong đó có đỉnh Ngọc Linh 2.596 m, Ngọc Phan 2.251 m, Ngọc Krinh 2.066 m, Ngọc Bôn Sơn 1.939 m, Kon Bo Ria 1.500 m, Kon Krông 1.330 m.
Vùng này là nơi bắt nguồn của nhiều con sông lớn như sông Cái chảy sang Quảng Nam, sông Sê San chảy sang Cămpuchia và sông Ba chảy sang Phú Yên.
Phía nam tỉnh có độ cao trên dưới 500m với độ dốc 2-5%. Từ phía tây Ngọc Linh có một dải thung lũng hẹp chạy đến giữa tỉnh thì mở rộng ra tạo nên cánh đồng bằng phẳng trải dài 50 km tới tận thị xã Kon Tum. Đây là khu vực đồng bằng nằm ở độ cao 252m so với mặt biển và được phù sa hai nhánh sông Se San là sông Đắk Pôkô và Đắk Bla bồi đắp.
Cực nam tỉnh có thác Yaly cao 60m đổ sang địa phận Gia Lai. Từ nguồn nước của thác này đã xây dựng trên đất Gia Lai nhà máy thuỷ điện Yaly công suất 720 MW.
Hành chính
Tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, với 96 xã, phường và thị trấn, bao gồm:
- Thành phố Kon Tum
- Huyện Đắk Glei
- Huyện Đắk Hà
- Huyện Đắk Tô
- Huyện Kon Plông
- Huyện Kon Rẫy
- Huyện Ngọc Hồi
- Huyện Sa Thầy
- Huyện Tu Mơ Rông
Tỉnh lỵ của Kon Tum hiện nay là thành phố Kon Tum cách Quy Nhơn 215 km về phía tây, cách thành phố Hồ Chí Minh 600 km về phía bắc.
Dân cư
Dân số: 430.037 người, trong đó số nam: 218.375 người; số nữ: 211.662 người (điều tra dân số ngày 01/04/2009).
Kon Tum là tỉnh có mật độ dân số thấp nhất trong 63 tỉnh, thành phố. Trên địa bàn Kon Tum có 35 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm 46,4% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Xơ Đăng chiếm 25,1% ; người Ba Na 12,0% ; người Giẻ Triêng 8,1% ; người Gia Rai 5,1%...
Người Ba Na là một trong những dân tộc bản địa của Kon Tum. Họ không những giỏi săn bắn mà còn là dân tộc đầu tiên của Tây Nguyên biết dùng trâu, bò cày kéo và chữ viết. Người Ba Na can đảm và trọng nghĩa tình, thể hiện trong tập tục cà răng, căng tai làm đẹp của trai gái và những vết sẹo trên ngực đàn ông do tự lấy than lửa hoặc dao rạch ngực mình để tỏ lòng thương tiếc người quá cố.
Đến nay những tập tục này đã và đang bị loại bỏ vì không còn thích hợp với một xã hội văn minh, nhưng ý nghĩa của nó thì còn mãi trong dân gian. Đến với buôn làng người Ba Na cũng như buôn làng của các dân tộc ít người khác ở Kon Tum người ta còn được chứng kiến nét sinh hoạt văn hoá cộng đồng độc đáo tiến hành trong nhà rông có mái nhọn cao vút.
Diện tích và dân số qua các thời kỳ
1971: 10.181 km², 117.046 người
1975: 10.839 km², 117.000 người
1991: 10.519 km², 258.138 người
1996: 9.934 km², 265.300 người
1998 9.934 km², 280.200 người
1999 (Tổng điều tra dân số 1-4): 9.615 km², 314.042 người
2004: 9.614,5 km², 366.100 người.
Lịch sử
Tuy vùng đất cao nguyên này được coi là thuộc lãnh thổ Đại Việt từ năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông đánh chiếm Trà Bàn, lập phủ Quy Nhơn, nhưng trải qua các triều đại, ở đây chưa hề có hệ thống hành chính, mà chế độ "già làng" vẫn tiếp tục tồn tại.
Thời Pháp thuộc
Năm 1893, sau khi thôn tính Đông Dương, người Pháp đã cho lập một tòa Đại lý hành chính tại Kon Tum, ban đầu trực thuộc Tòa Công sứ Attôpư (Attopeu) ở Lào, đến năm 1905 mới trực thuộc Tòa Công sứ Quy Nhơn. Viên Đại lý là một linh mục người Pháp, tên là P. Vialleton, vốn là cha xứ ở đây từ trước.
Năm 1904, tỉnh tự trị Plâycu Đe (Pleikou Derr) được thành lập, tách từ tỉnh Bình Định. Năm 1907, tỉnh Plâycu Đe bị bãi bỏ, và Đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ tỉnh này, được đặt dưới sự cai trị của Công sứ Bình Định.
Ngày 9 tháng 2 năm 1913, tỉnh Kon Tum được thành lập, gồm toàm bộ tỉnh Plâycu Đe trước kia. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ bao gồm Đại lý Kon Tum tách ra từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách ra từ tỉnh Phú Yên và Đại lý Đắc Lắc do tỉnh Đắc Lắc được chuyển thành.
Năm 1917, tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc tỉnh Bình Định được nhập vào tỉnh Kon Tum rồi Đại lý An Khê được thành lập, dưới quyền Công sứ Kon Tum.
Đến năm 1923, tỉnh Đắc Lắc mới được tái lập, tách ra khỏi tỉnh Kon Tum.
Năm 1925, thành lập Đại lý Plâycu dưới quyền Công sứ Kon Tum và đến năm 1932 Đại lý này mới tách ra để trở thành tỉnh Plâycu. Đến năm 1943 thì Đại lý An Khê tách tỉnh Kon Tum để nhập vào tỉnh Plâycu.
1955-1975
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Kon Tum được chia thành 4 huyện,xã theo Nghị định số 348-BNV/HC/NĐ ngày 27 tháng 6 năm 1958: huyện Kon Plong gồm 3 tổng 11 xã, huyện Đak Tô gồm 9 tổng 29 xã, huyện Đak Sut gồm 6 tổng 23 xã, thị xã Kon Tum gồm 10 tổng 57 xã, trong đó có 10 xã người Kinh. Chưa đầy một tháng sau, huyện Đak Tô lại bị chia thành 2 huyện Đak Tô và Tou Mrong.
huyện Chương Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi được thành lập theo Sắc lệnh số 234-NV ngày 9 tháng 9 năm 1959 trên cơ sở tách ra một phần đất của huyện Kon Plong, rồi đến ngày 19 tháng 12 năm 1964 được sáp nhập vào tỉnh Kon Tum huyện Kon Plong bị bãi bỏ năm 1960.
Sau năm 1976
Từ năm 1976 đến năm 1991, tỉnh Kon Tum sáp nhập với Gia Lai thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum.
Nghị quyết kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa 8 ngày 12 tháng 8 năm 1991 đã chia lại tỉnh Gia Lai - Kon Tum thành hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai.